Mừng Chúa Giáng Sinh 2009


“Lạy Thánh Mẫu, chúng con kính chào Mẹ là đấng đã sinh ra Đức Vua cai trị trời đất muôn đời”

noelblog

Trong năm các linh mục do đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI công bố, hội Sứ Giả Tin Mừng quỳ trước máng cỏ khẩn nài Thánh Gia ban những ân sủng và những phúc lành cao quý nhất cho bạn và những người thân yêu của bạn.

Nguyện xin Đấng Vĩnh Cửu và Thượng Tế tuôn đổ ơn Bình An và niềm Hy Vọng cho bạn mỗi ngày trong Năm Mới.

Hội Sứ Giả Tin Mừng

Heralds of the Gospel

English

Hérauts de l’Évangile

Français

Araldi del Vangelo

Italiano

Bày tỏ một xã hội ngây thơ, vô tội

Tại Galilê, vị thầy thần linh đã nói với các môn đệ của ngài về những việc bắt bớ, cái chết và sự phục sinh, tương phản với ý niệm của dân Israel về một đấng Mêsia hoàn toàn nhân loại muốn khôi phục quyền bính trần thế. Ngài đã mở ra một viễn cảnh mới trước mặt họ : khiêm tốn, từ bỏ và phục vụ phải là đặc điểm của người muốn thực hành quyền bính theo tinh thần của Đức Giêsu.

Đức ông João S. Clá Dias, EP

jesus“Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn cho ai biết, vì Người đang dạy các môn đệ rằng : ‘Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngay sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.’ Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Capharnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông : ‘Doc đường anh em đã bàn tán điều gì vây ?’ Các ông làm thinh, vì khi đi đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Rồi Đức Giêsu  ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói : ‘Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết. Và làm người phục vụ mọi người’. Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói : ‘Ai tiếp đón mọt em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy, và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.'”

I. Xã hội con người ở thiên đàng

Nếu một xã hội đã phát triển ở vườn địa đàng, bao gồm nhân loai trong tình trạng nguyên thuỷ, nó đã được Thiên Chúa cai trị với ân sủng thần linh và được hưởng những ơn  ngoại nhiên và siêu nhiên. Ở đó, sự hoà điệu và hiểu biết đã chiếm lĩnh con người. Ở đó, không có sự ghen ghét và thù địch, vì mỗi người hâm mộ những nhân đức của người bên cạnh – sự  mừng vui ở trong tập thể và mỗi cá nhân ước muốn sự thánh thiện tốt đẹp nhất.

Nhưng con người đã phạm tội, và bị trục xuất khỏi địa đàng. Nguyên tổ loài người đã bị mất đi những ân huệ được hưởng. Nhân loại bị lệ thuộc vào bệnh tật, chết chóc, mất quân bình tâm lý và nhiều sự dữ không thể đếm được.

Càng tệ hơn nữa, linh hồn mất đi ơn liêm chính mà nhờ đó con người thống trị được nhục dục và gìn giữ đam mê trong trật tự hoàn hảo. Không có ơn huệ này, những đam mê trở nên phóng túng và con người phải chiến đấu nội tâm liên tục để thống trị chúng. Sự ngây thơ vô tội đãû đi vào tình trạng gây hấn để bảo vệ chúng khỏi mắc tội.

Nguồn gốc của sự bất đồng

Hiệu quả của sự hỗn loạn này là ghen ghét và thù địch và nó trở thành nguyên nhân chính của xung đột và bất đồng. Như thánh Giacôbê đã xác nhận trong bài đọc hai của Chúa nhật 25 thường niên : “Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa” (Gc 3,16)

Thực ra, ghen ghét là một tật xấu nhất. Người có tật xấu này không có hạnh phúc vì thường xuyên so sánh chính mình với người khác. Khi anh ta tìm thấy nơi người khác trổi vượt hơn anh ta, anh ta sẽ lập tức tự hỏi mình rằng : “Tại sao người đó giỏi hơn ta ? Tại sao người đó có nhiều hơn ta ? Thái độ này làm cho đời sống anh ta gay gắt, phát ra nhiều nỗi khốn khổ và ngay cả có thể bộc phát những sự dữ thể lý.

Tất cả nguồn gốc sự dữ của chữ “tại sao” này phát sinh từ sự kiêu ngạo. Thánh Giacôbê đã khẳng định cách rõ ràng : “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em ? Chăng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao ?” (Gc 4,1)

Biết bao nhiêu người hiện nay đang chiến đấu để chiếm cho được nhiều tiền của, quyền lực hay uy tín chỉ thường sử dụng những điều phi pháp hay cả những phương tiện gây ra tội ác. Bao nhiêu điều sai trái anh ta đã vi phạm để đạt cho được mục đich.

Chưa hết, ngay cả việc tích luỹ gia tài hay đạt được quyền lực, anh ta sẽ không bao giờ thỏa mãn. Anh ta luôn luôn muốn nhiều hơn nữa,vì tâm hồn con người được cấu tạo hướng về sự bất tận, tuyệt đối, vĩnh cửu nên khong bao giờ thoả mãn cả. Vì thế, thánh Giacôbê kết luận : “Anh em ham muón mà không có, nên anh em chém giết ; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì nên anh em xung đột với nhau và gây chiến với nhau” (Gc 4,2). Con người tham lam đã ham muốn mọi việc cách xấu xa thay vì được hạnh phúc lại mất đi sự bình an trong tâm hồn.

Sự thánh thiện khôi phục sự mất quân bình

Chỉ có một con đường để chế ngự những đam mê bất kham và khôi phục sự mất quân bình của tâm hồn bởi tội lỗi : đi theo con đường thánh thiện. Trong việc chiến đấu thường xuyên chống lại những đam mê và cố gắng chinh phục chúng theo lề luật của Chúa, chúng ta dần dần khám phá sự ngây thơ vô tội đầøu tiên của chúng ta. Những phản ứng của tâm hốn dần dần gia tăng với những điều đã có trước kia trong vườn địa đàng. Những điều đã có một cách dễ dàng ở đấy, giờ đây đòi hỏi chúng ta nơi đất lưu đày những nỗ lực chân thành, những chiến đấu nội tâm và nhiều việc hãm mình, tất cả hỗ trợ chúng ta cùng với sự trơ giúp của ân sủng. Vì, nếu không có ân sủng, không ai có thể chế ngự những xáo động kinh khủng của đam mê.

Vì thế, Nước Trời sẽ phát triển trên trái đất này tới phạm vi mà có nhiều tâm hồn thánh thiện ở giữa nhân loại như những đèn hiệu của nhân dức và ngây thơ để chiếu sáng cho con đường nhân loại. Đó sẽ là triều đại của sự ngây thơ vô tội, hình ảnh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng vô tội tiêu biểu. Đây là niềm vui biết bao mà chúng ta được hưởng từ việc thực hiện gần gũi nhất của nền văn minh như ở thiên đàng. Đây là bài học quan trọng nhất được rút ra từ chất liệu phong phú của bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay.

II. Sự va chạm giữa hai trạng thái tâm lý

“Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê, nhưng Đức Giêsu không muốn cho ai biết”

Sau khi từ núi Tabor đi xuống và trừ quỷ cho một em bé trước đám đông, Đức Giêsu đi vào miền Galilê. Người muốn đi cách bí mật, tháp tùng chỉ có các môn đệ vì “Người dạy các môn đệ” trên đường đi. Ở đây, tác giả sách Tin mừng trình bày đường lối sư phạm thần linh của Đức Giêsu. Người dạy dỗ các môn đệ trên đường đi, trong bầu khí vui vẻ. Người đã không dạy triết học của người Hy lạp, không dạy học thuyết của các thầy dạy Israel ; Người mặc khải cho họ những bí mật từ quả tim thần linh của Người và dạy họ mọi điều Người đã nghe từ Cha Người (x.Ga 15,15)

Đức Giêsu chuẩn bị cho các tông đồ chịu những thử thách

thaborCâu chuyện xảy ra hùng vĩ tại núi Tabor, chỉ có Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến đã không được tỏ bày. Nhưng, các tông đồ khác, bằng cách thấy ba gương mặt rạng rỡ vui tươi, có lẽ nhận ra rằng có một điều gì đó đầy ý nghĩa đã xảy ra. Chắc chắn, họ tò mò, và có thể lo âu, để biết điều đã xảy ra.

Có thể, theo quan niệm trần tục của họ, các tông đồ nghĩ rằng Chúa đã mặc khải một vài kế hoạch táo bạo để chiếm đoạt quyền lực nên đòi hỏi phải giữ bí mật hoàn toàn. Ý tưởng khôi phục vương quốc trần thế mà người Israel một thời đã thống trị các nước lân bang đã cắm rễ sâu vào tư tưởng của người Do thái thời đó – hiệu quả ở ngay trong số những người đi theo Đức Giêsu – ngay cả sau khi Đức Giêsu phục sinh, một vài người còn hỏi : “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không ?” (Cv 1,6)

Dần dần, vị Thầy đã sửa đổi một cách kiên nhẫn quan điểm trần thế và vật chất của các môn đệ. Bằng cách lôi kéo các môn đệ theo mình với mục tiêu này, Đức Giêsu ước muốn rằng chính Người cùng với các tông đồ, sẽ được rèn luyện và chuẩn bị cho những thử thách khó khăn ở phía trước.

“vì Người đang dạy các môn đệ rằng : ‘Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại'”

Bằng cách loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Người, Đức Giêsu đặt các đau khổ của sự thử thách và bắt bớ trước mặt Nhóm Mười Hai.

Didon xác nhận rằng : “Không có gì đáng ghê tởm đối với người Do thái hơn là ý tưởng về Đấng Mêsia chịu đau khổ và hy sinh“. Họ trông ngóng cách hăm hở sự chiến thắng và vinh quang cho người Israel cùng sự bình an và thịnh vượng kéo dài hàng thế kỷ và ngay cả thiên niên kỷ nữa. Tóm lại, họ mong đợi một ước muốn trần tục có tính cách vĩnh cửu.

Các tông đồ nhận thức một cách chắc chắn rằng Đức Giêsu đang thiết lập một cơ chế cho công việc của Người. Họ cũng nhận ra rằng Người đã đào tạo họ để mỗi người đóng một vai trò quan trọng trong tương lai. Nhưng họ còn dính bén với quan niệm sai lầm của một vương quốc trần thế, và đã băn khoăn với việc ai sẽ nắm giữ vị trí cốt cán trong tổ chức mới này.

Didon mô tả tình huống khêu gợi sự kình địch ở giữa họ : “Phêrô đã được chỉ định làm đầu, Giacôbê và Gioan có vẻ được hưởng một sở thích nào đó. Bây giờ, những quyền lợi ưu tiên dĩ nhiên đã khêu gợi lên những đố kỵ, ghen tương ở những người khác cách nào đó [. . .] Do đó những cuộc tranh cãi, gièm pha, công kích  diễn ra.

Trong bầu khí của tham vọng và ham muốn quyền lực này, Chúa chúng ta chuẩn bị một cách kiên nhẫn cho các môn đệ của Người không rơi vào mặt nổi của những thử thách khủng khiếp đang đến gần.

Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người.

Đây không phải là lần đầu tiên Đấng Mêsia nói trước về cuộc khổ nạn và phục sinh của Người cho các môn đệ. Tuy nhiên, những lời này còn xa lạ đối với họ, ngay cả với Phêrô, Giacôbê và Gioan, những chứng nhân ưu tuyển trong cuôïc hiển dung, hiểu được ý nghĩa của lời nói này.

Từ trên núi Tabor đi xuống, Chúa đã nói với họ đừng nói với bất kỳ ai “cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại” (Mc 9, 9). Tuy nhiên, các ngài không nắm bắt được ý nghĩa của những lời này và tranh luận ở giữa họ “từ cõi chết sống lại nghĩa là gì ?” (Mc 9,10).

Thánh Gioan kim khẩu mô tả cách rõ ràng : “Các tông đồ hiểu ý nghĩa về lời tiên báo cái chết của Thầy mình thấp kém biết bao. Sau tất cả những dấu lạ làm sáng tỏ quyền năng, sau mặc khải duy nhất về căn tính của Đức Giêsu bằng tiếng nói bởi trời và sau lời tiên báo rõ ràng về cái chết và phục sinh của Người, họ đã không hiểu điều quan trọng nhất mà vẫn còn bận tâm với lo âu riêng tư của họ.

Cha Lagrange phân tích bản văn như sau : “Các môn đệ vẫn không hiểu. Cuộc khổ nạn của Đấng Mêsia là điều không thích hợp. Điều mà họ ít hiểu nhất về học thuyết của Đức Giêsu là sự cần thiết phải chịu đau khổ. Khi Thầy Giêsu nói điều này lần đầu tiên , Phêrô phản đối nhưng bị trách mắng nghiêm khắc (Mc 8,31) ; cơ hội thứ hai, họ thay đổi chủ đề (Mc 9,11) lần này, họ không dám hỏi.

Tâm lý của các tông đồ va chạm với Đức Giêsu

Nếu các môn đệ đã không hiểu điều Thầy nói với mình, tại sao họ không dám hỏi ? Đức Giêsu đã luôn luôn đối xử với họ với lòng nhân từ không thể tả được, và cơ hội không thể tốt hơn, khi chỉ có họ với Thầy mình. Đó là một điều dễ dàng, đặc biệt trong môi trường thân mật đó, hỏi Người để được giải thích.

Có một lý do về tâm lý sâu xa ở phía đằng sau. Viễn cảnh về cái chết của vị Thầy ngược với kế hoạch thăng tiến xã hội của họ cùng giải pháp chính trị và kinh tế mà họ ước muốn. Nó làm sụp đổ toà nhà ảo ảnh mà người Israel đã xây dựng khi ngóng trông đấng Mêsia : một con người có khả năng không thể tin được, được đầy ân sủng cho phép người này giải thoát dân ưu tuyển khỏi ách đô hôï Roma và đưa họ lên cao, trên các dân tộc khác.

Các tông đồ nhận thấy rằng tâm lý của họ va chạm với thầy mình. Đức Giêsu đã dạy  môït học thuyết mà họ đã không muốn nghe, trong sâu thẳm của tâm hồn họ. Câu trả lời của đức Giêsu có thể làm cho họ chướng tai, buộc họ phải thay đổi suy nghĩ.

Quan sát điều này, Cha Tuya nhận xét : “Các tông đồ biết rằng những lời tiên báo của Thầy mình sẽ đi qua. Họ có một linh cảm về một kịch bản điều hoà cho cả Đức Giêsu và chính họ và họ tránh theo đuổi vấn đề mới đặt ra.

Thánh Tôma nói rằng “con người không bao giờ làm điều xấu với mục đích xấu – họ luôn luôn tìm lý do để biện minh nó, cho nó một lý do chính đáng. Trong tâm trí của các môn đệ, hai tư tưởng đối kháng nhau : một Đấng Mêsia chịu bắt bớ, chịu chết và sống lại và một Đấng Mêsia hoàn toàn nhân loại, khôi phục quyền lợi vật chất cho dân Israel. Vì thế, họ hợp lý hoá, biện minh cho tư tưởng sai lầm mà họ kiên trì tin tưởng. Nỗi sợ hãi về những nền tảng của tâm lý chính trị và trần thế sụp đổ làm cho họ thận trọng khi đặt vấn đề.

Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Capharnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông : “Dọc đường anh em đã bàn tán điều gì vầy ?” Các ông làm thnh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”

Đức Kitô biết rất rõ điều các tông đồ đang tranh luận trên đường đi. Họ yên lặng với cử chỉ vụng về, xấu hổ khi phải nói với Thầy rằng đề tài cuộc đối thoại của họ là mộït tranh cãi ích kỷ về quyền ưu tiên cá nhân.

Sự im lặng của họ là một sự mặc nhiên công nhận về lỗi lầm đã phạm mà giờ đây đã có ý thức. Đức Hồng Y Gomá xác nhận : “Thái độ của họ là một sự đối nghịch rõ ràng với vị thế của Thầy, và họ bị bối rối trước mặt Người

Các nhà chú giải của dòng Tên cũng diễn tả tương tự : “Sự yên lặng của các môn đệ trước câu hỏi của Thầy rất là tâm lý. Họ cảm nhận chắc chắn rằng những khát vọng của họ sẽ không gặp được sự tán thành của Thầy mình.

Một khái niệm mới về quyền bính

Rồi Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói : “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”

Đức Giêsu biết rất rõ những tông đồ mà Người đã tuyển chọn. Theo cha Lagrange, “Người không ngạc nhiên về mối bận tâm của các tông đồ, Người cũng không tranh luận về nguyên tắc của giai cấp, nhưng Người gợi ý một tinh thần mới mà nó thúc đẩy cho những ai bận tâm về vị trí quyền thế. Ở đây, một trật tự mới đã được báo trước cách chắc chắn”

Với những lời này, Đức Giêsu không xét xử việc tìm kiếm địa vị ưu tiên, nhưng Người đặt môït điều kiện : là người đứng đầu, phải là người “rốt hết và làm người phục vụ mọi người.” Sự xác nhận này đã mở ra một viễn cảnh mới cho các tông đồ, mà vào thời đó họ đã được tiếp thu về khái niệm của quyền bính, tức là sự dũng mãnh, giàu có, nhiều khả năng nhất, khôn ngoan hay khéo léo phải cai trị, phần còn lại mới nói đến sự vâng phục.

Trong ánh sáng này, Đức Giêsu công bố điều lệ cai trị chiếm ưu thế trong kỷ nguyên Kitô giáo : “Vương quốc mới mà Thầy muốn thiết lập không giống như vương quốc trần thế. Điều mà thúc đẩy các môn đệ của Thầy không phải là tinh thần tham vọng hay tìm kiếm sự vĩ đại. Tốt hơn, điều kiện nền tảng và đầu tiên để đạt được vị trí đầu tiên trong vương quốc của Đấng Mêsia là sự khiêm tốn, coi thường danh dự, từ bỏ quyền lợi riêng tư để dâng hiến chính mình cho việc phục vụ tha nhân.

Khiêm tốn, coi thường danh dự, tự huỷ và dâng hiến cho tha nhân, đây là cách đối xử của những người cai trị theo tinh thần của Đức Giêsu. Đó là quyền tối cao của nhân đức và sự ngây thơ vô tội trong xã hội chà đạp trên sự giận dữ, ghen ghét, kình địch mà nó giày vò nhân loại sau tội nguyên tổ.

Trong quan điểm này, Cha Maldonado ghi lại chú giải rất diễn cảm của thánh Cyprianô, giám mục, tử đạo : “Với lời đáp trả của mình, Đức Giêsu đã loại bỏ tất cả sự ganh đua và loại trừ mọi cơ hội và nguyên cớ cho sự ganh tỵ.Đối với môn đệ Đức Giêsu, nuôi dưỡng sự kình địch, ghen ghét, hay sự cạnh tranh, trổi vượt hơn người khác là không hợp pháp. Chúng ta cần học hỏi sự khiêm tốn là con đường dẫn đến vị trí hàng đầu.

Sau cùng, thật là lý thú khi nhận thấy rằng : Đức Giêsu “ngồi xuống” trước khi công bó một điều quan trọng, để “xét xử như ở toà án và dạy dỗ các tông đồ tại ngai toà, những điều quan trọng và nghiêm túc, mà không được phép nói khi đứng như trong quá khứ, chứng tỏ một sự thâïn trọng và có suy nghĩ”.

III. Cai trị bằng việc bảo vệ sự đơn sơ

“Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó . . .”

Các nhà chú giải giải thích một cách tổng quát câu chuyện Đức Giêsu gọi một em nhỏ đến với Người, bằng cách móc nối với tường thuật của thánh Luca với những lời sau đây của Đấng Cứu Thế : “Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” (Lc 9,48).

Các em nhỏ không bị ràng buộc với sự ghen ghét và tự đắc

Thật là đáng ghi nhớ khi vị Thầy thần linh dùng đường lối sư phạm hùng hồn này để chỉ cho các môn đệ – đang bị mù quáng bởi ham muốn địa vị – nhu cầu của sự đơn sơ và khiêm tốn. Bởi vì như thánh Gioan kim khẩu nói : “Em bé thì thanh thoát với sự ghen ghét, tự đắc và ham muốn với vị thế đầu tiên

Thánh Bêđa khả kính nhấn mạnh đến sự yêu mến cao độ của Thiên Chúa đối với nhân đức khiêm tốn : “Bởi nhân đức này, Người chỉ cho thấy rằng hoặc là những người muốn trở nên lớn lao hơn phải đón nhận sự nghèo khó của Đức Kitô trong sự tôn kính Người, hoặc là Người khuyến khích họ giống như trẻ thơ, gìn giữ sự đơn sơ mà không kiêu ngạo, bác ái mà không ghen ghét, tận tâm mà không giận dữ. Một lần nữa, bằng việc đem một em nhỏ ôm vào lòng, Người muốn nói rằng người thấp bé thì xứng đáng với cái ôm ấp và tình yêu của Người

Qua câu chuyện này, Đức Giêsu muốn chỉ cho thấy người môn đệ thực sự – cho dù thế nào đi nữa – không nên chú tâm vào sự bị ngược đãi, bị bỏ quên hay bị loại trừ. Người môn đệ phải hiện diện thực sự mà không lọc lừa, không kiêu căng, nhưng tốt hơn luôn khen tặng các đức tính của những người khác. Ai làm được những điều này là người đầu tiên đón nhận tình thương của Thiên Chúa. Bất cứ ai xem chính mình chỉ là người bé nhỏ và thấp kém nhất sẽ nhận được nhiều nhất từ Đấng quan phòng.

Người ta có thể hình dung sự bối rối sâu xa của nhóm Muươì Hia vào lúc này. Họ muốn chiếm một vị trí quan trọng, và Đức Giêsu chỉ chọ họ cần tìm kiếm chỗ thấp kém nhất. Họ hăm hở cho vương quốc Mêsia vinh quang, và Đức Giêsu thức tỉnh họ về cuộc khổ nạn, cái chết trên thập tự giá. Sự va chạm của hai tâm lý trở nên rõ ràng. Nhưng Đức Giêsu chỉ nói những điều này với sự dịu dàng, không chua cay, vào đúng lúc, để những lời của Thầy thấm nhập cách hữu dụng trong tâm hồn các môn đệ. Một lần nữa, Người chỉ dẫn một nghệ thuật khéo léo và đáng khen của việc sửa chữa, làm kiểu mẫu cho nhưng người có trách nhiệm linh hướng.

Đức Giêsu bày tỏ tình yêu của Người cho những ai không bao giờ phạm tội.

Người nói với họ : ‘Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy ; và ai tiếp đón Thầy,thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sia Thầy.’”

Mặc dầu các thánh sử kể ngắn gọn câu chuyện này, chúng ta có thể hình dung Chúa chúng ta phải nấn ná với một em bé để phát biểu những suy tư đẹp đẽ về tuổi thơ. Chúng ta có thể hình dung Người khen ngợi sự khiêm tốn và đơn sơ của em bé biết bao, như thể Người làm nổi bật các nhân đức của người không bao giờ phạm tội.

Trong câu cuối của đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thầy rõ ràng tình yêu lớn lao của đức Giêsu đối với người đơn sơ, tượng trưng nơi em bé mà Người đang ôm lấy. Em bé này – theo Êusêbiô Xêdarê đó là thánh Inhaxiô thành Antiôkia tử đạo trong tương lai tượng trưng cho những người hiến dâng chính họ cho Thiên Chúa một cách hoàn toàn với một ý hướng ngay lành và với tự do của ý chí.

Như là con người, Đức Kitô là kiểu mẫu của sự thanh khiết ; như là Thiên Chúa, Người là chính sự thanh khiết,. Người lôi kéo em bé đến với Người bởi vì như thánh Lêô Cả dạy rằng : “Người yêu mến tuổi thơ – thầy dạy của sự khiêm tốn, tiêu chuẩn của sự thanh khiết, kiểu mẫu của sự hiền lành. Đức Kitô yêu mến tuổi thơ, Người mong muốn nhừng người lớn tuổi phải theo đó để làm gương ; và Người dẫn dắt những ai mà Người muốn sau này chỗi dậy tới vương quốc vĩnh cửu đi theo mẫu gương khiêm tốn đó.”

Thánh Bêđa khả kính khẳng định : “Người cũng thêm rằng họ có thể, ‘vì danh Thầy’, với mục đích rõ ràng, đi theo những con người của Thầy để hình thành các nhân đức giống như em bé. Và bởi vì Người dạy rằng chính Người đã được đón nhận trong em bé, nên sẽ có người nghĩ rằng không có gì ở trong Người mà chỉ là em bé, do đó Người thêm : ‘và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy’ ; như thể muốn nói rằng : chúng ta nên tin Người cùng một bản tính và cùng quyền năng với Cha Người

Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy”.Đồng thời, Đức Giêsu chỉ rằng chính Người ngang hàng với Chúa Cha, trong khi Người chỉ rằng bất cứ ai đón tiếp, chăm sóc và bảo vệ một em bé vô tội là ôm lấy chính Thiên Chúa.

Trong chiều hướng này, Maldonado nhắc nhở rằng “thánh Marcô đưa ra lý do này thay cho kết luận của thánh Mátthêu : ‘Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ thì chẳng được vào Nước Trời’. Câu kết luận này được xác nhận cách ẩn ý bởi điều mà thánh Marcô nói ở đây rằng không một ai sẽ được vào Nước Trời nếu họ không giống như Thiên Chúa. Những gì không thanh sạch sẽ không được vào thành đô này (như thánh Gioan viết trong sách Kh 21,27). Bạn sẽ không giống như Thiên Chúa nếu bạn không đón nhận Người, bạn sẽ không thể đón nhận Người, nếu bạn không đón nhận Tôi. Và bạn không thể đón nhận Tôi nếu bạn không đón nhận các trẻ em nhân danh Tôi và trở nên giống như chúng. Vì thế, nếu bạn không hoán cải và trở nên giống như trẻ thơ, bạn sẽ không được vào Nước Trời.”

Môït đường lối cai trị và liên đới mới

Theo tinh thần của Tin mừng mà vị Thầy đã công bố trước đây, bất cứ ai muốn cai trị phải là người phục vụ. Đức Giêsu vừa dạy các Tông đồ chân lý này, mà nó hoàn toàn xung đột với tâm lý của người ngoại đã thống trị tâm hồn họ, đó là con người phải được cai trị bằng sức mạnh.

Trong một xã hội được đánh dấu bằng sự đơn sơ, quyền bính là phụ thuôïc như người ta cai trị một em bé. Trẻ em không có đời sống của quyền lực, chúng nó đơn sơ, dễ cảm, khiêm tốn, và luôn luôn săn sàng đi theo người khác. Bởi vì chúng nó yếu ớt và nhỏ bé, chúng phải được hương dẫn bởi sự thân ái và yêu mến. Tương tự, những người cai trị phải đặt chính họ cho việc phục vụ, tạo mọt bầu khí lôi kéo hơn là áp đặt, và tìm cách để đánh thức lòng nhiệt thành để thực hiện điều thiện hảo.

IV. Điều thiện hảo tốt nhất mà con người có thể đón nhận

20090912_fb_can_bapteme-et-messe_096Bảo vệ sự thanh khiết của bí tích Rửa tội, hay giành lại nó nếu đã bị mất đi, phải là mục đích của mỗi Kitô hữu để Thiên Chúa Ba Ngôi luôn ngự trị trong tâm hồn họ.

Sự thanh khiết là điều thiện quý giá nhất con người có thể nhận được. Nhờ sự liên kết với Ba Ngôi chí thánh, con người được hưởng một sự trong trắng mà không một quyền lực, tiền bạc hay văn kiện nào có thể chu cấp được.

Con người không thể sai lầm trong thời công chính nguyên khởi như thánh Tôma nói : “”Bao lâu tình trạng thanh khiết tiếp tục, sự hiểu biết của nhân loại không thể bằng lòng với điều sai lầm là chân lý”. Tương tự, con người mà duy trì sự thanh khiết của bí tich Rửa tội sẽ không thể sai lầm tới mức độ người ấy để cho ân sủng hướng dẫn, đó là những nhân đức và ân huệ của Chúa Thánh Thần. Cha Garrigou Lagrange xác nhận : “ Trong trật tự của ân sủng, đức tin làm cho chúng ta gắn liền với lời Chúa và với bất cứ điều gì nó diễn tả. [. . .] Trong khi các học giả tranh luận lâu dài và đặt nhiều giả thuyết, Thiên Chúa thực hiện công trình của Người trong những tâm hồn thanh sạch.”

Chúng ta phải gìn giữ tâm hồn chúng ta khỏi tội lỗi cho dù chính mạng sống của chúng ta có bị đe doạ. Nếu chúng ta đã lầm lỡ làm mất đi sự thanh khiết của bí tích Rửa tội, chúng ta hãy cố găng một cách can đảm đề giành lại nó, như thánh nữ Maria Mađalêna, với một tình yêu nồng nàn dành cho Thầy mình. Tình yêu nồng nhiêt của thánh nữ làm cho người giống như Đấng mà người yêu cho đến nỗi người được tôn kính đầu tiên giữa các thánh trinh nữ trong kinh cầu các thánh.

_________

1“Sự phục tùng của ý muốn nhân loại cho Thiên Chúa dẫn đến sự liêm chính hồn tồn trong tình trạng hài hồ về điều mà chúng ta nĩi tới. Từ sự rút lui của ý muốn nhân loại cho sự phục tùng thần linh dẫn đến sự thay đổi của bản năng cho lý trí, và của thân xác cho tâm hồn một sự phục tùng hồn hảo. Kết quả là, con người đã kinh nghiệm, trong cảm giác hạ đẳng, những chuyển động hỗn loạn của nhục dục, giận dữ và những đam mê khác tới trật tự của lý trí và ngay cả những điều trái với lý trí, bao bọc con người trong sự tối tăm và gây rối loạn cho năng lực con người vào những thời điểm tốt đệp nhất” (ST. THOMAS AQUINAS Compêndio de Teologia [Bảng Tĩm Tắt Thần học]. c.192).

2 Cf. AQUINAS, St. Thomas. Summa Theologica, q. 2 e 3.

3 Cf. MALDONADO, P. Juan de. Comentarios a los cuatro Evangelios – II San Marcos y San Lucas [Những chú giải vè 4 Tin mừng – II Thánh Marcơ và thánh Luca ]. Madrid: BAC, 1951, p.146.

4 DIDON. Jesus Cristo [Chúa Giêsu Kitơ]. Porto: Liv. Int. de Ernesto Chardron, 1895, Vol. 2, p.227.

5 Idem, p.228.

6 Apud ODEN, Thomas C. e HALL, Cristopher A. La Biblia comentada por los Padres de la Iglesia – Nuevo Testamento 2 San Marcos [Chú giải Kinh Thánh của các giáo phụ – Tân Ước 2 thánh Marcơ]. Madrid: Ciudad Nueva, 2000, p.184.

7 LAGRANGE, OP, P. M.-J. Evangile selon Saint Marc [Tin mừng theo thánh Marcơ]. 5. Ed. Paris: Gabalda et Fils, 1929, p.244.

8 TUYA, OP, Pe. Manuel de. Biblia Comentada – II Evangelios [Chú giải Kinh Thánh – II Các Tin mừng]. BAC: Madrid, 1964, p.695.

9 Cf. AQUINAS, St. Thomas. Summa Theologica. I-II q. 78, a. 1.

10 GOMÁ Y TOMÁS, Card. Isidro. El Evangelio explicado [Giải thich Tin mừng]. Barcelona: Rafael Casulleras, 1930, Vol. 3, p. 83.

11 La Sagrada Escritura. Texto y comentarios por Profesores de la Compađía de Jesus. Nuevo Testamento.– Evangelios. [Kinh Thánh. Đoạn văn và các chú giải do các giáo sư Dịng Tên. Tân ước] Madrid: BAC, 1961, Vol. 1, p. 450.

12 LAGRANGE, OP, P. M.-J. Op. cit., p.244-245.

13 DEHAULT. L’Evangile expliqué, défendu, médité – tome troisième [Tin mừng : giải thích, hộ giáo và suy niệm – quyển 3]. Paris: P. Lethielleux Editeur, 1867, p.290.

14 MALDONADO, SJ, Op. cit., p.151.

15 Idem, ibidem.

16 JOHN CHRYSOSTOM, St. Nhừng bài giảng về Tin mừng theo thánh Matthêu,số 58, 3.

17 BEDE, St. In Marci Evangelium Expositio, l. 3, c. 9: PL 92, 0224.

18 Cf. DEHAUT, Op. cit., p. 290.

19 LEO THE GREAT, St. Sermones in praecupuis totius anni festivitatibus ad romanan plebem habiti. Serm. 37, c. 3: PL 54, 0258.

20 BEDE, St. Op. cit., PL 92, 0225.

21 MALDONADO, SJ, Op. cit., p.152-153.

22 AQUINAS, St. Thomas. Summa Theologica. I, q. 94, a. 4.

23 GARRIGOU-LAGRANGE, OP, P. Reginald Marie. El sentido común. La filosofía del ser y las fĩrmulas dogmáticas [Cảm quan thơng thường : Triết học về sự hiện hữu và những cơng thức về học thuyết]. Buenos Aires: DEDEBEC y Ediciones Desclée, De Brouwer, 1945, p. 340-344.

Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI ban tặng huy chương cho người sáng lập tu hội “Sứ giả Tin mừng”

1Huy chương “Vì Hội Thánh và Giáo Hoàng”, một trong những phần thưởng cao quý nhất do Đức Giáo Hoàng ban tặng cho những người có nhiều công sức trong việc phục vụ Hôïi Thánh và giáo triều Roma, đã được Đức Hồng Y Franc Rodé trao cho Đức Ông João Scognamiglio Clá Dias, trong một buổi cử hành Thánh lễ long trọng vào ngày 15.08 tại nhà thờ Đức Mẹ Mân côi, ở chủng viện Sứ giả Tin Mừng, toạ lạc tại Greater São Paulo.

Đức Ông João S. Clá Dias là vị sáng lập tu hội “Sứ giả Tin mừng” cùng hai tu đoàn tông đồ Virgo Flos Carmeli dành cho giáo sĩ và Regina Virginum dành cho nữ giới.

Trong buổi lễ trao tặng huy chương, nhân dịp sinh nhật thứ 70 của Đức Ông João Clá, vị Tổng Trưởng Thánh bộ về Đời sống Thánh hiến và Tu đoàn Tông đồ đã chú tâm nói tới sự nghiệp của người được nhận huy chương, bằng cách nhắc lại những lời của thánh Bênađô :

“Khi trao tặng cho cha huy chương mà Đức Giáo Hoàng đã mong muốn thưởng công cho sự nghiệp của cha, những lời của thánh Bênađô ở phần đầu luận án De Laude Novae Militae đến trong tâm trí tôi : ‘Có một lúc nào đó tin tức được phổ biến nói rằng một mẫu ngươi mới với phong cách hiệp sĩ đã xuất hiện trên thế giới’. Những lời này có thể áp dụng cho ngày hôm nay. Thật vậy, nhờ vào cha một phong cách hiệp sĩ mới đã được sinh ra, không phải cho trần thế nhưng cho tôn giáo, với một lý tưởng mới về sự thánh thiện và sự phục vụ quả cảm cho Hội Thánh. Trong nỗ lực này, chúng tôi không thể nào quên một đặc sủng được ban cho Hội Thánh, một hành động của Thiên Chúa quan phòng vì những nhu cầu của thế giới hôm nay, đã được phát sinh từ tấm lòng cao quý của cha.”

2Trong khi bày tỏ tấm lòng biết ơn đối với phần thưởng cao quý mà Đức Giáo Hoàng dã ban tặng, Đức Ông João S. Clá Dias đã nhấn mạnh đến vai trò khéo léo, tài giỏi của Đức Hồng Y Franc Rodé trong việc hướng dẫn các cơ quan của Toà Thánh giao cho ngài trông coi hai tu đoàn tông đồ Virgo Flos Carmeli và Regina Virginum cùng những chỉ dẫn quý báu để hai tu đoàn này được sự chứng nhận thuộc quyền giáo hoàng. Nhưng, trước tiên, ngài muốn bày tỏ tấm lòng con thảo đối với Đức Giáo Hoàng luôn hoà nhịp đập với các con tim của các thành viên thuộc hội “Sứ giả Tin Mừng”, bằng cách dùng những lời nói như sau của vị lãnh đạo Công giáo Brazil nổi tiếng thuộc thế kỷ 20, giáo sư Plinio Corrêa de Oliveira :

“Mọi điều hiện hữu ở bên trong Hội Thánh Công giáo có tính chất thánh thiện, quyền bính, siêu nhiên – tất cả những điều này mà không loại trừ, không đặt điều kiện, hay giới hạn – thì phụ thuộc vào sự liên kết với ngai toà thánh Phêrô. [. . .] Dựa vào điểm này, đó là dấu hiệu của một sức mạnh tinh thần, một sự nhạy cảm tột cùng, sống động, nhẹ nhàng của người tín hữu khi được tiếp xúc với sự an toàn, vinh quang, và thanh bình của giáo triều Roma. Sau tình yêu đối với Thiên Chúa, đây là mức độ tình yêu cao nhất mà tôn giáo dạy cho chúng ta. Cả hai tình yêu này có thể trao đổi lẫn nhau. [. . .] Chúng ta có thể nói : ‘Đối với chúng ta, giữa Đức Giáo Hoàng và Chúa Giêsu Kitô, không có sự khác biệt’. Mọi sự liên quan đến Đức Giáo Hoàng một cách trực tiếp, mật thiết và không thể chia cắt thì cũng liên quan đến Chúa Giêsu Kitô”

Vào ngày hôm trước 14.08, Đức Hồng Y đã cử hành Thánh lễ long trọng để khánh thành nhà thờ Đức Mẹ núi Carmel tại nhà mẹ của tu đoàn tông đồ dành cho nữ giới Regina Virginum.


MỘT MẪU GƯƠNG CỦA LÒNG SÙNG MỘ BÍ TÍCH THÁNH THỂ

Đây là câu chuyện do một nữ tu kể tại một vùng truyền giáo ở miền cực Bắc của nước Canada vào đầu thế kỷ XX. Vị nữ tu này đã viết câu chuyện liên quan đến một bé gái tên là Christine thuộc bộ lạc Cree. Em bé gái này đã qua đời một thời gian ngắn sau khi đã được rước lễ lần đầu.

“Tu viện gần hồ Athabaska bây giờ đang đón nhận một ân sủng kỳ diệu của Thiên Chúa. Chính nơi đây đã cưu mang một em bé gái của bộ lạc Cree được đón nhận bí tích Thánh Thể. Cháu bé đã được rước lễ lần đầu vào ngày lễ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội 08.12.1915, lúc được 2 tuổi và 11 tháng. Em đã có thể được rước lễ sớm hơn, bởi vì không những em đã phân biệt được giữa Mình Thánh Chúa và bánh thường, theo những điều kiện thông thường đòi hỏi, mà em còn hiểu biết về những chân lý cốt yếu của giáo lý nữa.

Em gần được 2 tuổi vào ngày lễ Giáng sinh thứ hai của đời em. Chúng tôi đã giải thích cho em về cảnh hang đá, các mục đồng, ba nhà đạo sĩ, lý do trang hoàng ánh sáng chung quanh Hài Nhi thần linh. Christine đã làm gì ? Em đi thẳng tới nhà tạm, quỳ xuống trước nhà tạm và cầu nguyện.

Một nữ tu hỏi em : “ Tại sao các xơ không bao giờ thấy em đến hang đá cả ?. Nó rất đẹp, Tất cả những em bé khác đi đến đó để xem Chưa Giêsu hài đồng. Nhưng em thì không bao giờ.”

Em đáp : “Nhưng ở đó, Chúa Giêsu hài đồng không còn sống động. Ở đây, trong nhà bé nhỏ này, Người đang sống, và con nói chuyện với Người.”

Em đã không nghỉ ngơi cho đến khi em được phép rời khỏi giường để tham dự Thánh lễ. Trong khi linh mục đọc lời truyền phép trên bánh, em chăm chú nhìn vào Mình Thánh Chúa và không có gì có thể lôi kéo em ra khỏi sự chiêm ngắm đó. Tuy nhiên, vào một buổi tối, trong khi linh mục đọc lời truyền phép, em đã nói lảm nhảm. Mẹ bề trên, nắm bắt cơ hội này để làm bẽ mặt em, đã đi nói với các bé gái khác trong giờ giải trí :

Christine thì không khôn ngoan trong tất cả mọi sự. Em sẽ không được đi tham dự Thánh lễ nữa, cũng không được tham dự lúc truyền phép nữa. Đây là lần cuối cùng. Em phải tiếp tục ngủ.

Christine không nói gì., nhưng trong đôi mắt của em, ngước mắt hướng về người buộc tội, người ta có thể thấy nước mắt của em chảy lưng tròng. Một vài phút sau, các nữ tu quy tụ với nhau trong phòng cộng đoàn, nghe tiếng gó cửa của một bàn tay nhỏ bé. Đó là Christine.

Các xơ tha lỗi cho con. Con hứa sẽ là một em bé ngoan. Các xơ dẫn con đến tham dự Thánh lễ nữa nha !

Một buổi chiều, khi các xơ bỏ quên em, em la khóc. Một xơ chạy đến với em.

Có chuyện gì vây ?

Con chỉ có một mình.

Không đâu. Chúa Giêsu đang ở với con. Người ở khắp mọi nơi.

Nỗi buồn của em đã dịu lại.

Một vài ngày sau, Christine,trong khi đang bước qua các phòng, đã gặp một xơ đang ở một mình.

Thưa xơ, xơ ở có một mình, phải không ?

Đúng vậy, con à

Xơ không ở một mình, Chúa Giêsu bé nhỏ đang ở với xơ. Người ở khắp mọi nơi.

Rồi em nhón chân và đưa cánh tay vào trong ngực xơ và nói :

Chúa Giêsu bé nhỏ, Người đang ở đây. Người đã đi vào trong tâm hồn xơ, trong Thánh lễ.

Cuối cùng, ngày chờ đợi lâu dài đã đến. Nhiều lần em đã thoát khỏi sự canh chừng của những người giám hộ để xếp hàng đi rước lễ cùng với những người khác. Nhưng vị chủ tế đã đi qua mà không để ý dến em. Mỗi lần như thế, em cảm thấy chán nản. Vào ngày 08.12, lễ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, vị chủ tế đã dừng lại và đặt Thánh Thể trên đôi môi vô tội của em bé này. Kể từ lúc đó, Christine chỉ sống cho vi
ệc rước lễ buổi sáng và cho ngày hôm sau nữa mà thôi.

Em nói : ‘Tôi yêu mến tâm hồn tôi nhiều hơn nữa. Bây giờ Chúa Giêsu bé nhỏ đang ở đó’”

Virgo Flos Carmeli và Regina Viginum, hai tu đoàn tông đồ vừa được Toà Thánh công nhận.

(Gaudium Press, thứ ba 05.05.2009) Toà Thánh Vatican vừa xác nhận trong tuần qua về việc công nhận hai tu đoàn tông đồ Virgo Flos Carmeli và Regina Viginum sau khi đức Hồng y Franc Rodé, Tổng Trưởng Bộ Đời Sống Thánh Hiến và Tu Đoàn Tông Đồ đã ký sắc lệnh. Tuy nhiên, trước đó, vào ngày 04.04, đức Giáo hoàng Bênêđitô XVI đã chấp thuận với quyền giáo hoàng cho hai tu đoàn này hoạt động trong một buổi tiếp kiến đặc biệt với đức Hồng y Rodé.

Theo giáo luật, tu đoàn tông đồ là sự liên kết giữa những người nam hay những người nữ mà những phần tử này sống thành cộng đoàn, cư ngụ trong cùng một nhà – bằng đời sống anh em, chị em với nhau – và tìm kiếm để đạt được đức ái trọn hảo.

Các thành viên của những tu đoàn này có lối sống riêng biệt và không có những lời khấn truyền thống của tu sĩ về đức khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục. Tu đoàn truyền giáo và Nữ tử bác ái thánh Vinhsơn là hai tu đoàn tông đồ nổi tiếng.

Phát xuất từ hội Sứ giả Tin mừng, và chia sẻ cùng một gia bảo của hội, hai tu đoàn tông đồ mới này, có nhữhg nét đặc thù riêng biệt. “Virgo Flos Carmeli” (Bông hoa trinh nữ của núi Carmel) là tu đoàn của giáo sĩ, hay nói cách khác, tu đoàn bao gồm đa số là linh mục, trong khi tu đoàn tông đồ “Regina Vỉginum” (Nữ hoàng của các trinh nữ) được thành lập cho nữ giới.

Theo sắc lênh của Toà Thánh, “Virgo Flos Carmeli” được sinh ra giữa một nền giáo lý về Hội Thánh và quyền giáo hoàng đầy công bình và yêu thương, cũng như kính trọng việc thánh hoá, tới những phạm vi lớn nhất có thể, những giá trị của đời sống trần thế.

Sắc lệnh khẳng định rằng tu đoàn được thể hiện tiêu biểu bởi sự bảo vệ tính chính thống, trong sáng của những phong tục và tinh thần của phẩm trật, “cũng như ước muốn đốt nóng lại trong con người sự phân biêït rõ rệt gữa điều lành và sự dữ. . .”

“Virgo Flos Carmeli” được thành lập bởi đức ông João Scognamiglio Clá Dias, E.P., ngườiø sáng lập và lãnh đạo của hội Sứ giả Tin mừng và được chấp thuận bởi giám mục Avezzano, Ý, đức cha Lucio Angelo Maria Renna vào ngày 15.06.2006. Sự phát triển của hội Sứ giả Tin mừng, hiện nay đang hoạt đôïng trên 70 quốc gia, dẫn đến sự đào tạo ngành linh mục và sau đó là hiến pháp của tu đoàn giáo sĩ.

Về sau, đức cha José Maria Pinheiro, giám mục Braganca Paulista, nơi nhà mẹ của tu đoàn đang hiện diện, đã thỉnh cầu đức giáo hoàng chấp thuận cho tu đoàn “Virgo Flos Carmeli” hoạt đôïng. Về phần mình, “Regina Viginum” đã được chấp thuận vào ngày 26.04. Theo sắc lệnh của Toà Thánh Vatican, tu đoàn tông đồ thuôïc quyền giáo hoàng, cũng được thành lập bởi đức ông João Scognamiglio Clá Dias, E.P., “nổi lên như là một cách diễn tả đặc sủng của Sứ giả Tin mừng, áp dụng cho những điều kiện đặc biệt của đời sống nữ giới, quyết tâm thể hiện nét đặc thù theo một đường lối riêng biệt giữa một thế giới bị tục hoá.”

DỤ NGÔN HẠT CẢI

Đức Ông João Scognamiglo Clá Dias, E.P.

“Nước Trời giống như chuyện hạt cải người kia lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhât ; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được” (Mt 13,31-32)

Những người nghe dụ ngôn này biết rất rõ về cây cải, loại cây từ một hạt bé tí của nó, khi được gieo vào lòng đất sẽ trở thành một cây vững mạnh với cành lá xanh tươi. Có thể Thiên Chúa đã chủ ý tạo dựng cây cải với mục đích để cho Đấng Cứu Thế làm hình ảnh cho dụ ngôn này. Lúc đầu hoàn toàn bé nhỏ, sự phát triển của nó làm cho mọi người ngạc nhiên, loại thực vật này minh hoạ rõ nét về nguyên nhân và sức mạnh của việc truyền giáo và của chính Nước Trời. Những người hiện diện khi Đức Giêsu loan báo giáo huấn của Ngài cho một nhóm nhỏ môn đệ, một thờì gian ngắn trước khi Ngài về trời, không thể hình dung rằng sẽ có hàng triệu người Công giáo ở trên thế giớí trong tương lai.

Trong giáo huấn của dụ ngôn này, sự tăng trưởng là yếu tố chính yếu. Nước Trời và việc truyền giáo gần như không thể nhận thấy được thuở ban đầu, nhưng theo dòng thời gian, sự bành trướng của nó sẽ không thể tính được nhất là bởi sự không cân xứng giữa việc thiếu phương tiện và hiệu quả vĩ đại của công việc.

Khi một em bé được mang đi lãnh nhận bí tích Thanh tẩy, Thiên Chúa sẽ thánh hoá em bởi dòng nước ân sủng. Nhiều năm sau đó, nhiều em bé mềm mại yếu ớt này sẽ là những chứng nhân vĩ đại cho đức tin. Ví dụ : ai mà không biết Thánh Gioan Bốtcô hay thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Những cái cây sum suê hoa lá đã phát sinh từ một nghi thức đơn giản như thế.

Dụ ngôn này khuyến khích chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của sự bành trướng và sự thấm nhập của toàn thể Hội Thánh trong khi dạy chúng ta ý nghĩa thật sự của Nước Trời và sự chiến thắng của những điều thiện mà, thực tế, sẽ chiếu sáng vào ngày cánh chung.

Tiểu sử Đức Ông João Scognamiglio Clá Dias: Đấng Sáng lập Hội “Sứ giả Tin Mừng”

Đức Ông João Scognamiglio Clá Dias sinh tại São Paulo, nước Brazil, ngày 15.08.1939. Cha mẹ ngài là người nhập cư từ Âu châu, ông António Clá Dias (người Tây ban nha, ở Cádiz) và bà Anita Scognamiglio Clá Dias (người Ý, ở Rome). Đức tin Công giáo của hai ông bà, mà họ đã lãnh nhận từ tổ tiên của họ, thì rất mạnh mẽ.Đức tin sống động này thể hiện rất sớm nơi cậu bé João. Ở trường học, ngài đã tìm cách tổ chức một phong trào với các bạn đồng môn để giúp cho các bạn trẻ một đời sống đạo đức. Ngài gia nhập “Hội Dòng thuộc về Đức Maria” và, với sự mời gọi của các thầy giáo, gia nhập Dòng Ba của dòng Carmel giữ phép nhặt vào ngày 23.07.1956 tại thành phố São Paulo. Biến cố này đã đánh dấu cho cuộc đời của ngài một cách sâu xa.Ngài tốt nghiệp trung học ở trường Estadual Roosevelt và học luật trong trường đầy uy tín Largo de São Francisco tại São Paulo. Trong thời gian học tại đây, ngài là một nhà lãnh đạo đại học Công giáo năng động vào những năm xáo động trước cuộc cách mạng ở Sorbonne tháng 05 năm 1968.

Đức ông João Scognamiglio Clá Dias là một vị kinh sĩ của đền thờ Đức Bà Cả tại Rome Ngài có học vị về Triết học và Thần học của đại học Italo-Brazilian tại São Paulo và bằng tiến sĩ Nhân văn của Đại học Công giáo thuộc quyền giáo hoàng Madre y Maestra của dòng Đaminh. Ngài có bằng Thạc sĩ về Giáo luật ở Học viện Giáo hoàng cao cấp về giáo luật tại Rio de Janeiro.

Lòng ước muốn nhiệt thành của ngài muốn hiến dâng cuộc đời cho công việc tông đồ, sự trung thành với giáo huấn của Hội Thánh cũng như tầm nhìn cần có một nền tảng học thuyết vững chắc, nên ngài nghiên cứu thần học của thánh Thomas với những giáo sư đại học nổi tiếng của Salamanca (Tây ban nha) như Cha Arturo Alonso Lobo O.P., cha Marcelino Cabreros de Anta C.M.F., cha Victorino Rodriguez O.P., cha Esteban Gómez O.P., cha Antonio Royo Marin O.P., cha Teofilo Urdánoz O.P. và cha Armando Bandera O.P. Những năm về sau để bày tỏ lòng biết ơn sâu xa của ngài đối với các thầy dạy, ngài đã viết tiểu sử ngắn về hai vị thầy thông thái này bằng tiếng Tây ban nha và tiếng Mỹ : “Cha Antonio Royo Marin O.P., một vị thầy về đời sống tâm linh, một người giảng thuyết sáng giá và một văn sĩ nổi tiếng”, và “Cha Marcelino Cabreros de Anta, C.M.F. một cột trụ vững chắc của Giáo luật cho thời đại chúng ta.”

Các học viện đào tạo học thuyết và tri thức của Hiệp hội Sứ giả Tin mừng được thành lập về sau là kết quả của các việc nghiên cứu này : Học viện Triết Thomas – Aristote, Học viện thánh Thomas cũng như Học viện Triết Thần Scholastica dành cho nhánh nữ, và đại học Sữ giả Tin mừng mở cho những khoá về Triết học và Thần học.

Xem âm nhạc như là một phương tiện hiệu quả của việc rao giảng tin mừng, ngài thanh lọc những sáng tác của ngài với nhạc sư nổi tiếng Miguel Arquerons, giám đốc đội nhạc hợp xướng Phaolo của rạp hát thành phố São Paulo.

Ước muốn về sự hoàn hảo thúc đẩy, ngài học hỏi kinh nghiệm ban đầu trong đời sống cộng đoàn ở môït ngôi nhà của dòng Bênêđitô trước kia tại São Paulo vào năm 1970. Những người bạn đầu tiên này không có ai kiên trì. Tuy vậy, sau nhiều bất thành, cộng đoàn đã cắm rễ sâu và nở hoa với phong trào phúc âm hóa do ngài lãnh đạo. Từ ngôi nhà đầu tiên này đã phát triển thành nhiều nhà khác, trong đó các thành viên đã tự hiến dâng mình để cầu nguyện và học hỏi, chuẩn bị cho công viêc rao giảng tin mừng. Công việc này đã mang hình thức pháp lý của một hiệp hội các tín hữu, hội Sứ giả tin mừng, trong giáo phận Campo Limpo (Brazil). Với sự phát triển ở 20 nước, hiệp hội đã được Hội đồng Giáo hoàng về giáo dân chấp thuận vào ngày 22.02.2001 như một hiệp hội quốc tế thuộc quyền giáo hoàng. Ngày nay hội đã hoạt động ỏ 57 quốc gia trên 5 lục địa. Sau khi được chấp thuận một thời gian ngắn, vị đại diện của Rome đã giao việc chăm sóc nhà thờ kính thánh Bênêđitô ở Piscinula cho hiệp hội.

Đức ông João Clá Dias là người sáng lập và Tổng phụ trách hiện nay của hiệp hội.

Một nhánh nữ của hiệp hội cũng phát triển – cách thức sinh hoạt cũng tương tự nhưng độc lập hoàn toàn với nhánh nam – với lý tưởng đời sống cộng đoàn như là phương tiện để đạt được sự thánh thiện và chuẩn bị xứng đáng cho sứ vụ phúc âm hoá. Từ nhánh nữ đã nảy sinh Tu đoàn tông đồ Regina Virginum, được Đức Cha Emilio Pignoli trong giáo phận Campo Limpo chấp thuận theo giáo luật.

Được thúc đẩy bởi ước muốn hiến dâng tốt hơn cho Thiên Chúa và anh em, đức ông João Clá đã chuẩn bị cho thừa tác vụ linh mục với một vài đồng sự của ngài. Vì vai trò của Dòng Ba Carmel đã thực hiện trong việc thiết lập Hiệp Hội, Bề trên dòng Carmel, Cha Lucio Angelo Renna, sau này trở thành Giám mục của Avezzano, Italy, đã đón tiếp những linh mục đầu tiên của Hiệp Hội. Họ – bao gồm đức ông João Clá – được thụ phong vào ngày 15.06.2005, trong vương cung thánh đường dòng Carmel, nơi mà gần 50 năm trước đó, ngài đã bắt đầu hoạt động cho công việc phục vụ Hội Thánh và các Kitô hữu. Nghi thức được cử hành với sự hiện diện của Đức Hồng y Claudio Hummes. Bảy vị giám mục cử hành Thánh lễ đồng tế cùng với 70 linh mục.

Những linh mục đầu tiên của hiệp hội đã xây dựng nên Tu đoàn tông đồ linh mục Virgo Flos Carmeli, được Giám mục Avezzano, Đức Cha Lucio Renna. chấp thuận theo giáo luật. Đức ông João Clá là vị Sáng lập và là Bề trên hiện nay của Virgo Flos Carmeli.

Đức ông João Clá cũng đã thành lập gần 50 ca đoàn và ban nhạc giao hưởng trong nhiều nước ở những nơi mà Hiệp hội đang hoạt động. Ngài là người điều khiển ca đoàn quốc tế của hiệp hội, và đã đi trình diễn trong những quốc gia ở Âu châu và Mỹ châu nhiều lần.

Ngài viết nhiều tác phẩm phổ biến rộng rãi (một vài tác phẩm vượt quá một triệu bản) bằng tiếng Pháp, Anh, Bồ đào nha, Tây ban nha, Ý, Ba lan, và Albanie : Fatima : hừng đông của thiên niên kỷ thứ ba ; Chuỗi Mân côi : lời cầu của hoà bình ; Trái Tim Chúa Giêsu : kho tàng của lòng nhân hậu và tình yêu ; Ảnh phép lạ : lịch sử và lời hứa từ trời ; Đường thánh giá; Giaxinta và Phanxicô : những người được chọn của Đức Maria ; Những kinh cầu nguyện hằng ngày ; Đức Mẹ chỉ bảo dường lành của Genazzano ; Dona Lucilia và Chú giải kinh nhật tụng về Đấng Vô nhiễm nguyên tội.

Đức ông là môït hội viên của Tu đoàn quốc tế thánh Tôma Aquinô, Hàn lâm viện về Đức Maria tại Aparecida và Hàn lâm viện Giáo hoàng về đấng Vô nhiễm nguyên tội. Nhiều quốc gia kính trọng ngài về những thành tựu hàn lâm và văn hoá bằng cách trao cho ngài huy chương của các nhà khoa học của Mêhicô và danh hiệu Tiến sĩ danh dự từ đại học Italo-Brazilian ở São Paulo.

Ngài là vị sáng lập và là cộng tác viên thường xuyên cho nguyệt san “Sứ giả tin mừng” xuất bản bằng tiếng Anh, Bồ đào nha, Tây ban nha và tiếng Ý, với tổng số phát hành gần 700.000 bản. Kể từ năm 2002, ngài đã viết chú giải Tin mừng cho mỗi số phát hành. Ngài cũng là cộng tác viên thường xuyên cho việc xuất bản báo “Lumen Veritatis”, do trườmg Đại học Sứ giả Tin mừng. Báo đã khai trương vào tháng 10 năm 2007, một phần lớn do sáng kiến của ngài.

Trong nỗ lực nâng cao công việc tông đồ từ thiện, ngài đã tạo lập tổ chức bác ái “Mercy” trong hiệp hội tại Brazil. Tổ chức này quy tụ những ân nhân xin lễ qua các e-mail.

Dưới sự thúc đẩy và hướng dẫn của ngài, trường cao đẳng quốc tế “Sứ giả Tin mừng” khai trương vào năm 2005.

Việc xây dựng tượng Đức Mẹ ở nhà thờ “Rosary”ở chủng viện của hiệp hội là công trình hoàn tất mới đây nhất của ngài. Đan viện núi Carmel của tu đoàn Regina Virginum đang gần hoàn tất, một lần nữa, nói lên những nỗ lực hoạt động không mệt mỏi của ngài.